Những bí mật về cách làm giàu của tỷ phú tự thân
Nhiều tỷ phú đã tạo được khối tài sản đầu tiên nhờ một hoặc hai vụ đầu tư lớn. Họ dành phần lớn thời gian mới lập nghiệp để tập trung phát triển một doanh nghiệp hoặc một loại hình đầu tư.
Nhiều tỷ phú tự thân cho rằng họ thành đạt là nhờ các bí mật mà mình phát hiện hay học được từ gia đình và những người đi trước.
Biết nắm bắt cơ hội
Hầu hết các tỉ phú Mỹ là dân nhập cư, họ luôn tích cực tìm kiếm những cơ hội mới và có tinh thần dám nghĩ dám làm. Châu Âu trong vài thập kỷ gần đây không có thêm nhiều tỉ phú so với sự nở rộ của các tỉ phú tại Trung Quốc – thị trường mới đầy tiềm năng. Các nền kinh tế mới nổi khác cũng là cái nôi của rất nhiều tỉ phú.
Tập trung vào công nghệ
Khi chúng ta nhắc đến những chủ doanh nghiệp có tài sản 1 tỉ USD tại Mỹ, một loạt tên của các công ty công nghệ nảy ra, từ người sáng lập Alphabet (công ty mẹ của Google) cho đến mới đây nhất là Uber. Tại Mỹ, số tỉ phú khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ chiếm 12% (56 người) so với 5% (17 người) ở châu Âu.
Hầu hết các tỉ phú Mỹ là dân nhập cư, họ luôn tích cực tìm kiếm những cơ hội mới và có tinh thần dám nghĩ dám làm. (Ảnh minh họa).
Hoạt động trong lĩnh vực tài chính
Không khó hiểu khi tài chính là lĩnh vực duy nhất có số tỉ phú cao hơn lĩnh vực công nghệ. Hơn 40% tỉ phú Mỹ gầy dựng tài sản của mình từ các quỹ đầu tư. Con số này ở châu Âu là 14% và châu Á là 12%.
Mua lại hoặc tạo dựng các công ty bằng tiền của người khác
Những nhà đầu tư này không e ngại việc mượn tiền hoặc phối hợp mua lại doanh nghiệp thông qua các đòn bẩy tài chính.
Ví dụ, Eli Broad đã cùng sáng lập nên công ty xây dựng nhà Kaufman & Broad (hiện nay là KB Home) với một khoản vay trị giá 25 ngàn đô la từ người thân. Tương tự như vậy, Harold Simmons đã mua cửa hàng thuốc đầu tiên của ông với 5 ngàn đô la tiền mặt tự có và 95 ngàn đô la đi vay, và sau đó đã dùng đòn bẩy mua lại (LBOs) để mua lại các doanh nghiệp được định giá thấp. Ira Rennert đã phát hành các trái phiếu vô giá trị để mua lại các công ty đang gặp khó khăn.
Phát tài với số lượng hạn chế các vụ đầu tư
Nhiều tỷ phú đã tạo được khối tài sản đầu tiên nhờ một hoặc hai vụ đầu tư lớn. Họ dành phần lớn thời gian mới lập nghiệp để tập trung phát triển một doanh nghiệp hoặc một loại hình đầu tư.
Ví dụ, Simmons đã dành 13 năm tạo dựng chuỗi cửa hàng thuốc và sau này ông đã bán cho Eckerd Corporation với giá 50 triệu đô la vào năm 1973. Philip Anschutz đã giàu có nhờ mua được vùng đất có dầu mỏ gần biên giới Utah-Wyoming. Albert Frere đã tích lũy được những tài sản quan trọng trong ngành công nghiệp thép của Bỉ trước khi mở công ty đầu tư. Peter Lim đã đầu tư vào Wilmar, một công ty sản xuất dầu palm, và đây là nguồn tạo ra sự giàu có ban đầu của ông.
Xây dựng kiến thức nền tảng về Tài chính, Kế toán hoặc Kinh tế
Hầu hết các tỷ phú tự thân đã từng học hoặc làm việc trong lĩnh vực tài chính. Các khóa học tại trường đại học dạy cho họ những kiến thức cơ bản về kinh doanh và những công việc đầu tiên cung cấp những hiểu biết sâu về hoạt động tài chính trong đời thực. Những kiến thức nền tảng này sau đó đã tạo nên triết lý và chiến lược đầu tư của họ.
Buffett đã học đầu tư vào giá trị từ Benjamin Graham, người được coi là tác giả của phương pháp này. Kerimov và Lim đều học kế toán và Hart bắt đầu hình thành khái niệm về công việc kinh doanh của ông khi đang hoàn thành chương trình MBA.
Cả Lim và Buffett đều từng làm công việc môi giới cổ phiếu, trong khi Simmons làm chủ ngân hàng và chuyên gia phân tích ngân hàng.
Bắt đầu tạo dựng sự giàu có từ khi còn trẻ
Nhiều tỷ phú bắt đầu quá trình làm giàu ở độ tuổi 20, 30 hoặc sớm hơn.
Ví dụ, Buffet và Lim đã mua những cổ phần đầu tiên khi vừa mới 20 tuổi và Broad đã mua khối bất động sản đầu tiên ở tuổi 20. Klarman ở độ tuổi 25 khi mở Baupost Group, và Frere bắt đầu mua lại các công ty trong ngành thép ở tuổi 30.
Tỷ phú tự thân và những
Nhiều tỷ phú bắt đầu quá trình làm giàu ở độ tuổi 20, 30 hoặc sớm hơn. (Ảnh minh họa).
Không bị nao núng bởi những thất bại
Các tỷ phú thỉnh thoảng cũng gặp thất bại. Nhưng thay vì rút lui khỏi thị trường thế giới, họ vẫn tiếp tục đầu tư.
Một ví dụ điển hình là Kerimov. Ông đã mất hàng tỷ đô la sau khi bán khối tài sản tại Nga để mua cổ phần của Morgan Stanley, Goldman Sachs, Deutsche Bank, và Credit Suisse vào năm 2008 – năm khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Để khôi phục lại tài sản, ông đã vay để đầu tư vào việc khai mỏ, bất động sản và viễn thông. Vào tháng 3/2013, thu nhập ròng của ông đã đạt mức 7.5 tỷ đô la.
Đa dạng hóa việc đầu tư sau khi đã phát tài
Nhiều tỷ phú có thể làm giàu được từ một hoặc hai nguông, nhưng họ đa dạng hóa khối tài sản của họ sau khi trở nên giàu có. Nhiều người tạo dựng các công ty cổ phần để phục vụ cho các hoạt động đầu tư rộng rãi trong khi những người khác kiếm được từ những lĩnh vực hạn chế hơn.
Giống như Buffett thành lập Berkshire Hathaway là công ty cổ phần với danh mục đầu tư đa dạng, Rennert đã mở Renco Group; Hart, Rank Group; và Simmons, Valhi. Một số người vẫn tập trung vào một số lĩnh vực chủ chốt nhưng được đa dạng hóa rộng hơn trước.
Ví dụ, Anschutz sở hữu Xanterra, cung cấp các dịch vụ khách sạn trong các công viên quốc gia, và AEG, một tập đoàn giải trí và thể thao, chuyên quản lý các địa điểm tổ chức hòa nhạc, các nghệ sỹ làm việc trong lĩnh vực âm nhạc,…
Leave a Reply